Đóng

Ấn phẩm

15 Tháng Hai, 2022

VẤN ĐỀ VỀ QUYỀN RIÊNG TƯ TRONG VIỆC KHAI BÁO Y TẾ

VẤN ĐỀ VỀ QUYỀN RIÊNG TƯ TRONG VIỆC KHAI BÁO Y TẾ

| Nguyễn Phương Như |

Dịch bệnh COVID-19 đãvà vẫn đang đe doạ nghiêm trọng đến toàn thế giới. Nhằm phục vụ công tác phòng chống dịch, Việt Nam đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm hạn chế, truy vết để kiểm soát và hạn chế sự lây lan của dịch bệnh, trong đó có biện pháp khai báo y tế. Với số lượng lớn thông tin cá nhân thu thập được từ việc khai báo, người dùng đang rất quan tâm đến việc bảo mật dữ liệu và các thông tinmà mình đã khai báo, bao gồm: các thông tin về tình hình sức khoẻ, lịch sử đi lại,… đặc biệt là việc xử lý dữ liệu, thông tin này hậu đại dịch. Bài viết này sẽ khái quát một số vấn đề về quyền riêng tư trong việc khai báo y tế tại Việt Nam như tính minh bạch, công khai, tính bảo mật của dữ liệu.

     Theo số liệu từ Bộ Y Tế, tính đến 0h ngày 11/02/2022, Việt Nam có 2.430.683 ca nhiễm COVID-19 với 38.688 ca tử vong[1]. Nhằm chống lại sự ảnh hưởng từ dịch bệnh, Việt Nam đã ban hành hành những chính sách bảo vệ người dân và truy vết dịch bệnh, trong đó có biện pháp khai báo y tế. Theo đó, người dân có thể thực hiện khai báo bằng một trong hai cách: điện tử (thông qua ứng dụng, website), hoặc thủ công (thông qua tờ khai y tế bằng giấy). Thông tin khai báo bao gồm[2]: Thông tin chung, Thông tin triệu chứng, Thông tin dịch tễ, Thông tin bổ sung khi khai báo nhập cảnh. Đối với việc khai báo trực tuyến, hiện nay, các đơn vị đã cho ra mắt rất nhiều ứng dụng phục vụ người dân. Tuy nhiên, việc có quá nhiều ứng dụng được triển khai cũng làm cho người dùng gặp không ít khó khăn trong việc sử dụng, kiểm soát các thông tin, dự liệu cá nhân mà mình đã khai báo cũng như phát sinh các nguy cơ về bảo mật và rò rỉ dữ liệu.

     Qua những thông tin trên, ta có thể thấy hiện nay tại Việt Nam hoạt động khai báo y tế đang làm phát sinh một số vấn đề liên quan đến quyền riêng tư của người khai báo như sau:
Không chỉ vậy, bên cạnh hệ thống khai báo y tế do nhà nước quản lý, một số tổ chức, doanh nghiệp khác cũng đã tiến hành triển khai các trang khai báo y tế hoặc mẫu khai báo y tế riêng của mình[3].

Ảnh:  Báo Quân đội Nhân dân

     Thứ nhất, tính hợp pháp, công bằng và minh bạch trong việc thu thập, sử dụng dữ liệu từ khai báo y tế. Trong đại dịch COVID-19, Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm 2007 trao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu khai báo y tế, còn những tổ chức, cá nhân khác thì chưa có quy định về việc cho phép thu thập những thông tin trên. Tính đến hiện nay, pháp luật Việt Nam chỉ quy định về quyền và nghĩa vụ khi thu thập thông tin của tổ chức, cá nhân trên không gian mạng như khoản 1 Điều 21 Luật CNTT, Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử, Điều 17 Luật An toàn thông tin mạng.

     Mặt khác, khi thực hiện việc khai báo y tế trên mạng, Điều 17 Luật An toàn thông tin mạng yêu cầu chủ thể thu thập thông tin có trách nhiệm thông báo cho người dùng phạm vi, mục đích của việc thu thập và sử dụng thông tin. Trên thực tế, mẫu khai báo y tế do cơ quan nhà nước quản lý có đăng tải công khai về mục đích, phạm vi xử lý dữ liệu người dùng tại điều khoản sử dụng[4],[5], nhưng của tổ chức, cá nhân khác hầu như không có[6]. Chính vì thế người khai báo khó có thể biết hoặc xác định được các dữ liệu, thông tin của mình sẽ do ai quản lý, sử dụng ra sao, sử dụng vì mục đích gì.

     Thứ hai, thời hạn lưu dữ liệu từ khai báo y tế. Mục đích của việc thu thập thông tin từ khai báo y tế là nhằm phục vụ công tác phòng, chống đại dịch COVID-19. Đối với phương thức điện tử, điểm a khoản 1 Điều 17 Luật An toàn thông tin mạ̣ng yêu cầu chỉ sử dụng thông tin cá nhân đã thu thập đúng với mục đích, phạm vi ban đầu. Chính vì thế, vấn đề được đặt ra là cách xử lý dữ liệu đã thu thập được sau khi chấp dứt đại dịch COVID-19. Về cách xử lý, khoản 3 Điều 18 Luật An toàn thông tin mạ̣ng quy định: “Tổ chức, cá nhân xử lý thông tin cá nhân phải hủy bỏ thông tin cá nhân đã được lưu trữ khi đã hoàn thành mục đích sử dụng hoặc hết thời hạn lưu trữ và thông báo cho chủ thể thông tin cá nhân biết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Như vậy sau khi kết thúc đại dịch COVID-19, dữ liệu khai báo y tế của người dùng phải được xóa bỏ.

     Trên thực tế, khi tham khảo điều khoản sử dụng của 2 ứng dụng NCOVI, Bluezone và website tokhaiyte.vn lại không đều cập rõ ràng về thời gian lưu trữ dữ liệu. Ứng dụng NCOVI và tokhaiyte.vn tuyên bố “Dữ liệu cá nhân của Thành viên sẽ được lưu trữ cho đến khi có yêu cầu hủy bỏ hoặc tự thành viên đăng nhập và thực hiện hủy bỏ. Còn lại trong mọi trường hợp thông tin cá nhân thành viên sẽ được bảo mật trên máy chủ của Tờ khai y tế.”[7] Đối với những dữ liệu do tổ chức, cá nhân khác thu thập, người khai báo không thể biết được dữ liệu của mình sẽ được lưu trữ bao lâu sau khi kết thúc đại dịch. Dù các bên thu thập dữ liệu thông báo sẽ xóa thông tin khi được người dùng yêu cầu, nếu người dùng không yêu cầu thì bên thu thập mặc định vẫn lưu trữ thông tin. Đây là hành vi đẩy trách nhiệm cho người dùng vì theo luật nghĩa vụ của bên thu thập là phải hủy bỏ thông tin sau khi hoàn thành mục đích sử dụng.

     Kết luận: Hoạt động khai báo y tế tại Việt Nam được tiến hành theo hai cách điện tử và truyền thống. Thực tế cho thấy việc khai báo y tế hiện nay tại Việt Nam còn tồn đọng những vấn đề về: tính minh bạch và công khai; thiếu các quy định cụ thể về thời gian lưu trữ thông tin; thiếu tính bảo mật, đặc biệt là khi tiến hành việc khai báo y tế bằng giấy. Đồng thời, pháp luật tại Việt Nam hiện nay cũng chưa có các quy định rõ ràng và cụ thể về các chủ thể được phép tiến hành việc khai báo y tế và các biện pháp để bảo mật các thông tin, dự liệu khai báo này cho người dân.

      Do đó, xét thấy việc gấp rút phát triển, hoàn thiện và bổ sung các quy định về quyền riêng tư liên quan đến việc khai báo y tế là một vấn đề vô cùng quan trọng và hết sức cấn thiết, qua đó phần nào bảo vệ và đảm bảo được các quyền riêng tư cho người khai báo.

     Mọi thắc mắc liên hệ Công ty Luật CLINIC Legal. Kính chúc quý độc giả cập nhật nhiều thông tin hữu ích.

CÔNG TY LUẬT TNHH CLINIC LEGAL
Trụ sở      : Tầng 1 Tòa nhà Vạn Lợi, 207A Nguyễn Văn Thủ, P. Đa Kao, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh
Chi nhánh: 4A/6 Lò Lu, P. Trường Thạnh, TP. Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh
Hotline     : 0888.378.111
Email       : info@cliniclegal.vn
Gặp trực tiếp Luật sư: 096.357.3838